Giỏ hàng

TĂNG KALI MÁU VÀ CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG Ở NGƯỜI CÓ TUỔI/CAO TUỔI VÀ NGUY CƠ TIM MẠCH

Theo Facebook bác sĩ Toanthang Cat

TĂNG KALI MÁU VÀ CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG Ở NGƯỜI CÓ TUỔI/CAO TUỔI VÀ NGUY CƠ TIM MẠCH

Tình trạng tăng kali máu (hyperkalemia) và Tình trạng tăng đường glucose máu (hyperglycemia) thường là một cặp triệu chứng xấu trên cùng một cơ thể. Điều đáng ngại nhất là thường không mấy ai quan tâm đến tình trạng tăng Kali máu vốn ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến hoạt động của tim.

Thời gian gần đây được xem kết quả xét nghiệm điện tim (ECG) của một vài người bạn đã có tuổi và thấy có những bất thường (ECG abnormalities) về hoạt động của tim liên quan đến tình trạng tăng mức kali trong máu. Tất cả họ đều không nhận thức được nguy cơ tim mạch chết người này. Khi được hỏi về chế độ dinh dưỡng thì mới “phát lộ” rằng có người thì uống nước đậu đen trường diễn và đa số họ là ăn khá nhiều rau quả hàng ngày. Ngay lập tức những người bạn này được khuyến cáo thay đổi chế độ dinh dưỡng giảm Kali, giảm Canxi, tăng Magiê để có lại sự hoạt động bình thường của tim.

(Ghi chú: Những người ăn chay trường (vegans) không phải là đối tượng được nói đến trong bài).

 

KALI (K) VÀ SỨC KHỎE TIM MẠCH

Trên kết quả điện tim (điện tâm đồ, ECG-Electrocardiogram) dễ dàng phát hiện sự bất thường của hoạt động của tim bị gây nên do tình trạng tăng/giảm kali trong máu. Những bất thường này nói chung là khó nhận biết nhưng diễn tiến âm thầm theo hướng xấu cho đến khi có những sự cố trên tim như loạn nhịp, dày hoặc giãn thành tim và/hoặc thiếu máu/nhồi máu cơ tim, thậm chí dừng tim.

Tim hoạt động dựa trên sự hoạt động của thế điện hóa qua màng (transmembrane electrochemical potential gradient) của tế bào cơ tim. Điện thế này chủ yếu là do chênh lệch nồng độ của ion [K+] giữa bên trong tế bào và bên ngoài tế bào tạo nên. Do lượng Kali bên trong tế bào lớn gấp gần 30 lần lượng Kali bên ngoài tế bào nên chỉ một thay đổi nhỏ của nồng độ Kali bên ngoài tế bào (đồng nghĩa là trong máu) cũng làm cho mức điện thế thay đổi khá lớn và như vậy đã ảnh hưởng rõ rệt đến hoạt động của tim.

Sự co bóp theo chu kỳ của tim có bản chất là do dòng ion [K+] (K-flow) đi ra khỏi tế bào (thì tâm thu, cardial systole) và dòng ion [K+] từ bên ngoài đi vào lại bên trong tế bào (thì tâm trương, cardial diastole). Dòng ion [K+] có được là do bơm Na/K (Na/K-pump) và sự đóng-mở bằng điện thế của kênh kali (voltage-gated K-channel) có trên màng tế bào. Dòng ion [K+] do đó phụ thuộc vào nồng độ của bản thân ion [K+], và còn phụ thuộc vào nồng độ của ion [Na+], [Ca2+] và đặc biệt là ion [Mg2+]. Ion [Mg2+] có vai trò đặc biệt là vì chỉ có nó tham gia vào sự hoạt động của tất cả các kênh ion và các bơm ion trên màng như K-channel, Na-channel, Ca-channel, Na/Ca-exchanger và Na/K-pump.

Tăng hay giảm mức kali máu đều nguy hiểm cho tim nhưng tăng kali máu nguy hiểm hơn là giảm kali máu vì tăng kali máu có liên quan đến tình trạng toan hóa chuyển hóa (metabolic acidosis) khiến dòng Kali đi ra khỏi tế bào vào máu nhiều hơn dòng Kali đi từ máu vào trong tế bào, mà đang nói ở đây là toan hóa chuyển hóa của mô cơ tim với nguy cơ tử vong cao.

 

HẤP THU VÀ BÀI TIẾT KALI VÀ SINH LÝ HỌC NGƯỜI CÓ TUỔI/CAO TUỔI

người có tuổi (ageings) và cao tuổi (elders) thì chức năng thận có sự suy giảm tự nhiên. Người ta đã thấy rằng chức năng thận suy giảm khoảng 1% mỗi năm. Điều đó có nghĩa là việc tái hấp thu hoặc bài tiết các chất qua lọc thận bị suy giảm theo thời gian. Trong câu chuyện về Kali thì thận sẽ không bảo đảm duy trì nồng độ Kali trong máu khi người ta càng ngày càng già đi. Vì thế nồng độ Kali trong máu thường có xu hướng tăng cao ở những người có tuổi và người cao tuổi.

Thực tế lâm sàng cho thấy tình trạng tăng kali máu thường xảy ra ngay sau bữa ăn (cùng với sự tăng mức glucose máu sau bữa ăn), trên người bị bệnh thận và người cao tuổi, và trên người bị tiểu đường (do thiếu insulin hoặc kháng insulin) mà tế bào không tiếp nhận được cả hai chất glucose và kali dẫn đến nồng độ của chúng trong máu đều tăng lên.

Tình trạng toan hóa chuyển hóa (metabolic acidosis), vận động cường độ cao và kéo dài cũng là nguyên nhân làm tăng kali máu.

Việc sử dụng các thuốc điều trị cũng là nguyên nhân làm ảnh hưởng đến việc bài tiết Kali tăng lên hay giảm đi của thận.

Vậy nên, cứ cho là chúng ta (những người có tuổi và cao tuổi) vẫn ăn uống như đã làm từ nhiều chục năm trước thì nay, cũng vẫn lượng ăn như thế nhưng thật không may là ở tuổi 45-50 trở ra, thận của chúng ta đã không còn bài tiết Kali như nó đã làm cách đây 10-15 năm. Đó là nguy cơ tăng kali máu và theo đó là những bất thường trong hoạt động của tim.

 

ĂN NHƯ THẾ NÀO LÀ VỪA ĐỦ KALI VÀ CÓ LỢI CHO CHUYỂN HÓA CỦA CƠ THỂ

Nguồn Kali cung cấp bình thường cho cơ thể là từ chế độ dinh dưỡng. Khoảng 90% lượng Kali ăn vào được hấp thu nhanh chóng qua thành ruột vào máu.

Vấn đề nguy cơ chính là việc hấp thu Kali này lại chủ yếu là hấp thu thụ động (passive absorption), nghĩa là hấp thu mà không có cơ chế kiểm soát, trong khi thận lại bị suy giảm khả năng bài tiết Kali vào nước tiểu, dẫn đến nguy cơ tăng mức Kali trong máu.

Các loại thức ăn đều có chứa Kali nhưng thức ăn có nguồn gốc thực vật thì giàu Kali hơn tính theo tỷ lệ dinh dưỡng trong thức ăn ăn vào, ví dụ Tỷ số Protein:Kali.

Trong dinh dưỡng lâm sàng, phải chú ý ưu tiên cao nhất cho chuyển hóa chứ không phải đơn thuần tính theo lượng calorie đưa vào cơ thể. Tình trạng chuyển hóa của cơ thể lại phụ thuộc chủ yếu vào tình trạng chức năng của gan và của thận. Theo đó, ưu tiên cho hoạt động của gan là phải cung cấp đủ protein cho cơ thể và ưu tiên cho hoạt động của thận là phải giảm tải Kali đưa vào cơ thể.

Nói cách khác, ở người có tuổi và người cao tuổi, cố gắng chú ý cung cấp đủ protein cho gan thông qua việc ăn thực phẩm từ động vật và giảm tải Kali cho thận bằng việc ăn giảm thực phẩm từ thực vật (rau-củ-quả). Như vậy là vừa bảo đảm duy trì tình trạng chuyển hóa cơ bản của cơ thể mà đồng thời giảm nguy cơ tăng Kali máu và do đó giảm nguy cơ trên tim mạch do tăng kali máu.

 

KHI CÓ TÌNH TRẠNG TĂNG KALI MÁU (hyperkalemia)

1) Tiết giảm việc ăn những thức ăn từ thực vật (do chúng có tỷ số Protein:Kali thấp, nghĩa là chứa ít protein nhưng nhiều Kali)

2) Một trong những phương án điều trị ban đầu (first medication) là cung cấp ion [Mg2+] sẽ giúp tăng cường hoạt động của bơm Na/K-pump và giúp K-channel đóng-mở chính xác và 2 phương tiện vận chuyển ion này sẽ đưa ion [K+] từ máu vào trong nội bào, dẫn đến nồng độ [K+] trong máu sẽ giảm đi.

3) Ở người có tăng kali máu trong tình trạng tăng glucose máu (và/hoặc tiểu đường, diabete), việc cung cấp ion [Mg2+] sẽ giúp các tế bào tiếp nhận đường và do đó cũng làm giảm sự tăng mức glucose máu.

Xin nhớ lại rằng, ion [Mg2+] đóng vai trò xúc tác sản xuất năng lượng ATP và cung cấp năng lượng tế bào dưới dạng [Mg2+]-ATP, tham gia chuyển hóa năng lượng dưới dạng [Mg2+]-ATPase, chất vận chuyển thông tin trong tế bào [Mg2+]-cAMP. Đối với mô cơ tim, tất cả các quá trình này là cực kỳ thiết yếu (sống còn) mà chỉ một quá trình trong số này bị suy giảm thì hoạt động của tim đã có nguy cơ rối loạn.

 

Tỷ số Protein:Kali trong một số thức ăn điển hình:

-100 g thịt lợn toàn phần (whole pork meat) có chứa 14g protein và 430mg K, trong khi 100g sup-lơ (broccoli) chứa khoảng 3g protein và 320mg K; 100g đậu hạt chứa khoảng 6g protein và 250mg K, 100g rau bắp cải (cabbage) chứa khoảng 1,2g protein và 170mg K

-100 g thịt bò thăn (lean beef meat) có chứa 26g protein và 320mg K, trong khi 100g khoai tây (potato) chứa khoảng 2g protein và 420mg K; khoai lang tương tự khoai tây.

-100g trứng gà (2 quả) chứa 13g protein và 120mg K, trong khi 100g táo (apple) chứa khoảng 0,3g protein và 110mg K; 100g cam tươi (orange fruit) chứa khoảng 1.0g protein và 180mg K

-----------------------

Kali (Potassium, K) trong cơ thể:

Kali là 1 trong 4 chất khoáng thiết yếu (Na-Ca và K-Mg) của sinh vật vì 4 chất khoáng này quyết định các quá trình trao đổi chất qua màng tế bào sinh vật. Ion Natri [Na+] và ion Canxi [Ca2+] là cặp ion ngoại bào (extracellular ions), ion kali [K+] và ion Magie [Mg2+] là cặp ion nội bào (intracellular ions).

Tổng lượng Kali trong cơ thể là khoảng 3000 mmol (khoảng 120g) và chủ yếu nằm bên trong các tế bào (98%) và một lượng nhỏ (2%) nằm trong khoang ngoài tế bào và trong máu. Vì điều này mà người ta còn gọi Kali là chất khoáng nội bào (intracellular mineral).

Nồng độ sinh lý học của Kali trong máu là 3,5 – 5,0 mmol/L. Dưới mức 3,5 là giảm kali máu (hypokalemia) và trên mức 5,0 là tăng kali máu (hyperkalemia). Một người bình thường và ăn uống đa dạng thức ăn thì thường có mức kali máu bình thường (normokalemia).

Kali trong cơ thể có thể bị mất qua việc nôn chớ, bị tiêu chảy, mồ hôi nhưng chủ yếu (bình thường) được bài tiết qua nước tiểu; cũng bài tiết qua đường phân nhưng không đáng kể. Các chất lợi tiểu làm tăng thải Kali qua lọc thận vào nước tiểu.

Theo khuyến cáo dinh dưỡng DRI của Mỹ, lượng kali ăn vào hàng ngày là khoảng 3500-4700mg cho người lớn, 3000-4500mg cho trẻ em; khuyến cáo dinh dưỡng của châu Âu thì thấp hơn, trung bình 3500mg/ngày.

--------------------

Chế độ dinh dưỡng có lợi cho chuyển hóa Kali:

1) Các chất dinh dưỡng cơ bản phải được cung cấp hàng ngày như sau, theo DRI:

-Proteins (Đạm=thịt, cá, trứng): 0,8-1,2g/kg thể trọng*ngày

-Chất béo (mỡ, dầu): 1,0-1,5g/kg thể trọng*ngày

-Glucose (tinh bột, đồ ngọt): 4,0-6,0g/kg thể trọng*ngày

-Kali (có trong các loại thức ăn): 3500-4500mg/ngày

Và hãy thử tính toán dinh dưỡng cho thành phần protein và Kali:

2) Về thức ăn, tính trung bình:

-100g thịt nạc (lean meat) có chứa khoảng 20g protein và 300mg Kali

-100g thịt mỡ (hoặc dầu) có chứa khoảng 90g chất béo, lượng Kali không đáng kể

-100g gạo (hoặc ngũ cốc) có chứa khoảng 10g protein, 85g tinh bột và 300mg Kali

-100g rau-củ-quả (tươi) có chứa khoảng 5g protein và 350mg Kali

Chế độ ăn cho người nặng khoảng 55kg (tương đương người Việtnam) hàng ngày:

3) Chế độ ăn A (chế độ ăn “chuẩn”)

Protein và Chất béo: khoảng 55g protein và 60g mỡ (tương đương khoảng 275g thịt lợn nạc và 70g thịt mỡ, hay khoảng 400g thịt lợn toàn phần) và sẽ cung cấp khoảng 1200mg Kali.

Glucose (tinh bột): khoảng 275g, tương đương 320g gạo, cung cấp 27,5g protein và 820mg Kali

Rau-củ-quả: TB hàng ngày khoảng 300g, cung cấp 1050mg Kali

Tỷ số Protein:Kali trong chế độ ăn A là 82,5:3070 (g/mg)

4) Chế độ ăn B (tạm gọi là chế độ ăn “giảm thịt cá, tăng rau-củ-quả”)

Protein và Chất béo: khoảng 25g protein và 25g mỡ (tương đương khoảng 125g thịt lợn nạc và 35g thịt mỡ, hay khoảng 200g thịt lợn toàn phần) và sẽ cung cấp khoảng 600mg Kali.

Glucose (tinh bột): khoảng 220g, tương đương 260g gạo, cung cấp 22g protein và 780mg Kali

Rau-củ-quả: TB hàng ngày khoảng 500g, cung cấp 1750mg Kali

Tỷ số Protein:Kali trong chế độ ăn B là 45:3130 (g/mg)

Có thể thấy tỷ số Protein:Kali ở chế độ ăn A cung cấp dinh dưỡng cân bằng sinh lý học nên có lợi cho chuyển hóa Kali hơn chế độ ăn B.

Facebook Top
Zalo