Khuyến cáo về điều trị huyết áp tăng và tăng huyết áp
TS. BS. Nguyễn Quang Bảy đang là Trưởng Khoa Nội tiết - Đái tháo đường, Bệnh viện Bạch Mai chia sẻ trên trang cá nhân:
Một số điểm mới trong Khuyến cáo về điều trị huyết áp tăng và tăng huyết áp của Hội tim mạch châu Âu (ESC) công bố ngày 1/ 9/ 2024
1. Đo huyết áp và tìm nguyên nhân:
- Nhấn mạnh hơn việc đo huyết áp ngoài bệnh viện, nhưng vẫn có thể sử dụng kết quả đo huyết áp tại bệnh viện.
- Đánh giá tụt huyết áp tư thế (giảm ≥20 mmHg huyết áp tâm thu và/hoặc ≥10 mmHg huyết áp tâm trương sau khi đứng 1 và/hoặc 3 phút). Thực hiện đo sau khi bệnh nhân phải nằm ít nhất 5 phút trước đó.
- Cần sàng lọc huyết áp tăng (elevated) và tăng huyết áp (hypertension) ít nhất 3 năm/lần với người < 40 tuổi và hàng năm với người ≥ 40 tuổi.
- Cần sàng lọc nguyên nhân tăng huyết áp thứ phát nếu BN có các dấu hiệu, triệu chứng hoặc tiền sử bệnh gợi ý. Đặc biệt cần sàng lọc cường aldosterone tiên phát cho tất cả các bệnh nhân người lớn bị tăng huyết áp, bằng xét nghiệm aldosterone và renin máu
2. Phân loại huyết áp và định nghĩa tăng huyết áp:
- Phân loại huyết áp thành 3 mức: huyết áp không tăng (<120/70 mm Hg), huyết áp tăng (120-139/70-89 mm Hg), và tăng huyết áp (≥140/90 mm Hg)
- Định nghĩa tăng huyết áp vẫn là huyết áp tâm thu ≥ 140 và huyết áp tâm trương ≥ 90 mmHg
- Huyết áp tăng là huyết áp tâm thu = 120-139 và huyết áp tâm trương = 70-89 mmHg. Những bệnh nhân này cần được đánh giá nguy cơ tim mạch và điều trị, đặc biệt nếu huyết áp ≥ 130/80 mmHg
3. Mục tiêu huyết áp:
- Các dữ liệu lâm sàng khẳng định huyết áp thấp hơn sẽ làm giảm tỷ lệ biến cố tim mạch, do đó Mục tiêu huyết áp tâm thu ở bệnh nhân tăng huyết áp điều trị bằng thuốc là 120-129 mmHg. Tuy nhiên cần chú ý đến dung nạp thuốc, và có thể để mục tiêu cao hơn ở những bệnh nhân có tụt huyết áp tư thế, bệnh nhân ≥ 85 tuổi, người già yếu, người dự kiến sống thêm < 3 năm...
- Nếu bệnh nhân tuân thủ kém và không thể đạt mục tiêu huyết áp tâm thu 120-129 mmHg thì có thể chấp nhận “mục tiêu huyết áp tâm thu thấp có thể đạt được”
4. Điều trị tăng huyết áp:
Khuyến cáo mới tập trung nhiều hơn vào điều trị làm giảm các kết cục tim mạch hơn là chỉ làm giảm con số huyết áp đơn thuần như khuyến cáo năm 2018. Nâng mức khuyến cáo (Class I) dùng thuốc hoặc thủ thuật can thiệp để kiểm soát huyết áp.
- Hướng dẫn thay đổi lối sống giới thiệu khuyến cáo mới về lựa chọn lối sống để làm giảm huyết áp, bao gồm tập thể dục nặng ít nhất 75 phút/tuần và bổ sung Kali hoặc ăn nhiều hoa quả.
- Bệnh nhân có huyết áp tăng (nhóm 2) mà cũng có bệnh thận mạn vừa hoặc nặng, bệnh tim mạch, đái tháo đường hoặc tăng cholesterol máu có tính chất gia đình được coi là nguy cơ tim mạch cao, hoặc bệnh nhân có nguy cơ tim mạch ước tính 10 năm ≥ 10% mà thay đổi lối sống > 3 tháng mà không hiệu quả thì nên được điều trị bằng thuốc hạ huyết áp.
- Uống thuốc huyết áp vào bất cứ lúc nào thuận tiện trong ngày, mục đích để tạo thói quen, từ đó làm tăng tính tuân thủ với điều trị.
- Lần đầu tiên, khuyến cáo của ESC đề cập triệt bỏ thần kinh giao cảm động mạch thận để điều trị tăng huyết áp trong một số trường hợp
- Khuyến cáo nên uống thuốc huyết áp cả đời, kể cả những người > 85 tuổi, nếu dung nạp tốt.
- Cần đánh giá thường xuyên sự tuân thủ điều trị
5. Điều trị tăng huyết áp ở các nhóm bệnh nhân đặc biệt:
- Người trẻ tuổi: Cần sàng lọc nguyên nhân tăng huyết áp thứ phát. Với những người béo thì cần đánh giá HC ngừng thở khi ngủ.
- Phụ nữ có thai: Dễ bị tăng huyết áp “áo choàng trắng”. Chế độ luyện tập với cường độ nhẹ- vừa
- Người già, ốm yếu: Người < 85 tuổi, khỏe mạnh vẫn nên được điều trị tăng huyết áp giống như người trẻ. Với người > 85 tuổi hoặc ốm yếu mức độ vừa - năng thì nên khởi trị bằng thuốc ức chế hệ RAS hoặc chẹn kênh calci tác dụng kéo dài, nếu cần có thể cho thêm lợi tiểu liều thấp nhưng không nên dùng thuốc chẹn beta hoặc chẹn alfa. Lưu ý các thuốc dùng cùng (để chữa bệnh khác) cũng có tác dụng hạ huyết áp, như thuốc an thần...
- Bệnh nhân có tụt huyết áp tư thế: tất cả các bệnh nhân cần được đánh giá tụt huyết áp tư thế trước khi điều trị tăng huyết áp. Nếu có thì nên áp dụng các biện pháp không dùng thuốc trước. Nếu phải dùng thuốc thì ưu tiên các thuốc hạ huyết áp không có tác dụng phụ gây tụt huyết áp tư thế.
6. Bệnh nhân đái tháo đường:
- Mục tiêu cũng giống như người không bị đái tháo đường, nhưng cẩn trọng khi để huyết áp tâm thu xuống đến 120 mmHg. Chú ý bệnh nhân đái tháo đường có nguy cơ cao bị tụt huyết áp tư thế do có biến chứng thần kinh.
- Lựa chọn thuốc hạ huyết áp giống như người không bị đái tháo đường nhưng cân nhắc sử dụng các thuốc ức chế hệ RAS vì bệnh nhân đái tháo đường có nguy cơ cao có albumin niệu.
7. Điều trị giảm huyết áp cấp cứu:
Bệnh nhân xuất huyết não, có huyết áp tâm thu ≥ 220 mmHg, thì không nên làm giảm huyết áp tâm thu > 70 mmHg trong vòng 1 giờ kể từ khi bắt đầu điều trị.